Lịch sử Hải quan Việt Nam

Năm 1945 Cách mạng tháng 8 thành công, Hồ Chủ tich đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Tuy nhiên, sau đó Việt Nam vẫn phải tiếp tục trải qua 30 năm chiến tranh ác liệt và 27 năm thử thách trong thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh.
Trụ sở Tổng cục Hải quan
Trụ sở Tổng cục Hải quan.

Với cái tên đầu tiên là “Sở Thuế quan và thuế gián thu” được thành lập với mục đích đảm bảo việc kiểm soát hàng hóa XNK và duy trì nguồn thu ngân sách Hải quan Việt Nam không ngừng chăm lo xây dựng, hoàn thiện và nâng cao cơ sở pháp lý - quản lý Nhà nước để ngày càng phù hợp hơn với thực tiễn của nước Việt Nam. Từ chỗ Hải quan Việt Nam còn phải tạm thời sử dụng những quy định nghiệp vụ về thuế quan của chính quyền thực dân đến nay đã xây dựng và ban hành được “Điều lệ Hải quan”, Pháp lệnh Hải quan và tiếp đó là Luật Hải quan Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2002.

Với những mục tiêu nhằm tạo thuận lợi cho phát triển XNK, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển du lịch và giao thương quốc tế, đảm bảo quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Hải quan Việt Nam đã luôn luôn thực hiện theo khẩu hiệu mà mình đã đặt ra: “CHUYÊN NGHIỆP, MINH BẠCH, HIỆU QUẢ”

LỊCH SỬ HẢI QUAN THEO CÁC GIAI ĐOẠN

Ngày 10 tháng 9 năm 1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thừa ủy quyền của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hòa ký Sắc lệnh số 27 - SL thành lập "Sở thuế quan và thuế gián thu" khai sinh Hải quan Việt Nam.

Quá trình trưởng thành và phát triển theo các giai đoạn:

GIAI ĐOẠN 1945-1954:

Thành lập Hải quan Việt Nam thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa vừa mới khai sinh, tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngày 10/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp được ủy quyền của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt nam Dân chủ Cộng hòa ký Sắc lệnh số 27 - SL thành lập "Sở thuế quan và thuế gián thu" khai sinh ngành Hải quan Việt Nam. Với:

Nhiệm vụ: Thu các quan thuế nhập cảnh và xuất cảnh, thu thuế gián thu. Sau đó, Ngành được giao thêm nhiệm vụ chống buôn lậu thuốc phiện và có quyền định đoạt, hòa giải đối với các vụ vi phạm về thuế quan và thuế gián thu.

Hệ thống tổ chức:

- Trung ương: Sở thuế quan và thuế gián thu (sau đổi thành Nha thuế quan và thuế gián thu) thuộc Bộ tài chính.

- Địa phương: Bắc, Trung, Nam bộ, mỗi miền đều có:

+ Tổng thu Sở thuế quan.

+ Khu vực thuế quan.

+ Chính thu Sở thuế quan.

+ Phụ thu Sở thuế quan.

Tình hình đất nước: Giai đoạn này cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; Hải quan Việt Nam phối hợp cùng các lực lượng thực hiện chủ trương bao vây kinh tế và đấu tranh kinh tế với địch. Nhiệm vụ chính trị của Hải quan Việt nam thời kỳ này là bám sát và phục vụ kịp thời nhiệm vụ của Cách mạng, tạo nguồn thu cho Ngân sách quốc gia, kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu, đấu tranh chống buôn lậu giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm.

GIAI ĐOẠN 1954-1975:

Nhiệm vụ: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Chính phủ giao cho Bộ Công thương quản lý hoạt động ngoại thương và thành lập Sở Hải quan ( thay ngành thuế xuất, nhập khẩu) thuộc Bộ Công thương.

Hệ thống tổ chức:

- Trung ương: Sở Hải quan.

- Địa phương: Sở Hải quan liên khu, thành phố, Chi sở Hải quan tỉnh, Phòng Hải quan cửa khẩu.

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của Ngành Hải quan, ngày 27/2/1960 Chính phủ đã đã có Nghị định 03/CP (do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ) ban hành Điều lệ Hải quan đánh dấu bước phát triển mới của Hải quan Việt nam.

Ngày 17/6/1962 Chính phủ đã ban hành Quyết định số: 490/TNgT/QĐ - TCCB đổi tên Sở Hải quan trung ương thành Cục Hải quan thuộc Bộ ngoại thương.

Giai đoạn này Hải quan Việt nam được xác định là công cụ bảo đảm thực hiện đúng đắn chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương, ngoại hối, thi hành chính sách thuế quan (thu thuế hàng hóa phi mậu dịch) tiếp nhận hàng hóa viện trợ và chống buôn lậu qua biên giới.

Năm 1973 Hiệp định Pari được ký kết chấm dứt chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc. Hải quan Việt Nam huấn luyện, chuẩn bị các điều kiện triển khai công tác khi miền Nam được giải phóng.

Thời kỳ này toàn ngành Hải quan được tặng thưởng 2 Huân chương Lao động Hạng hai và Hạng Ba, 11 đơn vị và cá nhân được tặng thưởng Huân chương Lao động và Huân chương chiến công các hạng.

GIAI ĐOẠN 1975-1986:

Hải quan thống nhất lực lượng và triển khai hoạt động trên phạm vi cả nước.

Sau khi thống nhất đất nước Hải quan triển khai hoạt động trên địa bàn cả nước từ tuyến biên giới phía Bắc đến tuyến biên giới phía Tây Nam, các cảng biển, Sân bay quốc tế, Bưu cục ngoại dịch, Trạm chở hàng. Do yêu cầu quản lý tập trung thống nhất, Chính phủ đã có Quyết định số 80/CT ngày 5/3/1979 quyết định chuyển tổ chức Hải quan địa phương thuộc UBND tỉnh, thành phố về thuộc Cục Hải quan Bộ Ngoại thương.

Thời kỳ này tính chất các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới có biểu hiện phức tạp và phổ biến. Ngày 30/8/1984 Hội đồng Nhà nước phê chuẩn Nghị quyết số 547/NQ/HĐNN7 thành lập Tổng cục Hải quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng; và ngay sau đó Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị quyết số 139/HĐBT ngày 20/10/1984 ban hành Nghị định quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan. Hải quan Việt Nam được xác định là "Công cụ chuyên chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà nước có chức năng kiểm tra và quản lý hàng hoá, hành lý, ngoại hối và các công cụ vận tải xuất nhập qua biên giới nước CHXHCN Việt Nam, thi hành chính sách thuế xuất nhập khẩu, ngăn ngừa chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới, nhằm bảo đảm thực hiện đúng đắn chính sách của nhà nước độc quyền về ngoại thương, ngoại hối góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước".

Hệ thống tổ chức:

- Tổng cục Hải quan.

- Hải quan tỉnh, thành phố.

- Hải quan Cửa khẩu và Đội kiểm soát Hải quan.

GIAI ĐOẠN 1986 đến nay:

Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đề ra đường lối đổi mới đất nước, chủ trương mở cửa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.

Nhiệm vụ: Yêu cầu đối với Hải quan Việt Nam lúc này là thực hiện quản lý Nhà nước về Hải quan trước tình hình: Hoạt động giao lưu hợp tác với nước ngoài phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy, kinh tế thị trường bộc lộ những khuyết tật, hạn chế, khối lượng hàng hóa XNK khá lớn tạo nguồn thu thuế XNK hàng năm chiếm tỷ lệ từ 20 - 25% GDP, tình trạng buôn lậu gia tăng, nhập lậu tài liệu phản động, ấn phẩm đồi truỵ, chất nổ, ma tuý khá nhiều.

Ngày 24/2/1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Pháp lệnh Hải quan. Pháp lệnh gồm 51 điều, chia làm 8 chương, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/1990.

Pháp lệnh Hải quan xác định chức năng của Hải quan Việt nam là "Quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam, đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, ngoại hối hoặc tiền Việt nam qua biên giới". Bộ máy tổ chức của Hải quan Việt nam được xác định rõ tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ Trưởng".

Hệ thống tổ chức:

- Tổng cục Hải quan;

- Cục Hải quan liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp t­ương đ­ương.

- Hải quan Cửa khẩu, Đội kiểm soát Hải quan.

Cơ sở vật chất của Hải quan Việt Nam được nâng cấp một bước: đã trang bị máy soi nghiệp vụ, máy và chó nghiệp vụ phát hiện ma tuý, tàu cao tốc chống buôn lậu trên biển.

Công tác đào tạo bồi dưỡng công chức được lưu ý hơn: Trường Nghiệp vụ Hải quan thành lập năm 1986, Trường Nghiệp vụ Hải quan 1 ( Hà Nội) thành lập năm 1988; sau hợp nhất 2 trưởng thành Trường Hải quan Việt Nam và năm 1996 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định thành lập Trường Cao đẳng Hải quan. Từ năm 1986 đến năm 1999 đã bồi dưỡng nghiệp vụ cho 4.626 cán bộ, gửi đào tạo đại học tại chức 1.750 cán bộ.

Hải quan Việt Nam đã tham gia và trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) từ ngày 01/7/1993 và từ đó đã mở rộng quan hệ với tổ chức Hải quan thế giới và Hải quan khối ASEAN. Ghi nhận bước trưởng thành của Hải quan Việt Nam, Hội đồng Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho Ngành, Huân chương các hạng cho một số Hải quan cấp tỉnh Hải quan Việt nam nhân dịp 45 năm kỷ niệm ngày thành lập ngành Hải quan.

Từ 1990 đến 2000 toàn ngành Hải quan tích cực triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tập trung đột phá vào khâu cải cách thủ tục hải quan tại cửa khẩu, thực hiện tốt các nội dung: Sắp xếp lại và thành lập thêm các địa điểm thông quan, công khai hóa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thủ tục hải quan, phân luồng hàng hóa "Xanh, Vàng, Đỏ", thiết lập đường dây điện thoại nóng, sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản, quy chế, quy trình thủ tục hải quan nhằm thực hiện các nội dung của đề án cải cách.

Trong 2 năm 1999 - 2000 Hải quan Việt Nam đã ký kết và thực hiện 2 Dự án với nước ngoài: Dự án VIE - 97/059 do UNDP tài trợ về "tăng cường năng lực cho Hải quan Việt Nam thực hiện công tác quản lý XNK và hội nhập quốc tế" và Dự án nghiên cứu khả thi do cơ quan Phát triển và Thương mại Hoa Kỳ (TDA) và Công ty UNISYS tài trợ về công nghệ thông tin tiến tới áp dụng công nghệ trao đổi dữ liệu điện tử EDI.

Từ năm 1993 đến 2001 toàn ngành tập trung xây dựng và hoàn thiện Dự thảo Luật Hải quan, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung đến tháng 5/2001 Dự thảo Luật Hải quan lần thứ 18 đã được hoàn chỉnh và trình kỳ họp thứ 9 Quốc Hội khóa 10 để thông qua thay thế cho Pháp lệnh Hải quan 1990. Ngày 29-06-2001, thay mặt Quốc hội nước CNXHCN Việt nam, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh ký quyết định số 29/2001/QH10 ban hành Luật Hải quan. Luật Hải quan được công bố chính thức theo Lệnh số 10/2001/L-CTN do Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký ngày 12-7-2001 và có hiệu lực từ 01-01-2002. Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho ngành Hải quan nhân dịp 50 năm ngày thành lập Hải quan Việt nam ( 10/9/1945 - 10/9/1995).

Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải ký Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg ngày 4 tháng 9 năm 2002 chuyển Tổng cục Hải quan vào Bộ Tài chính.

Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã ký quyết định số 42/2005/QH11 ban hành "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan". Luật này có hiệu lực từ ngày 01-01-2006.

LỊCH SỬ HẢI QUAN THEO MỐC THỜI GIAN

Ngày 10-9-1945, theo sắc lệnh số 27-SL của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp, thay mặt Chính phủ ký thành lập “Sở thuế quan và thuế gián thu”. Với mục đích thiết lập chủ quyền thuế quan của nước Việt Nam độc lập, đảm bảo việc kiểm soát hàng hóa XNK và duy trì nguồn thu ngân sách từ hoạt động này.

Ngày 03-10-1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký Sắc lệnh để Sở Thuế quan và thuế gián thu thuộc Bộ Tài chính.

Ngày 09-11-1945, Bộ trưởng Bộ Tài chính Phạm Văn Đồng ký Nghị định số 48-TC "ấn định để lập nhập cảng, xuất cảng các hàng hóa".

Ngày 05-02-1946, Bộ trưởng Bộ Tài chính Phạm Văn Đồng ký Nghị định số 192-TC về tổ chức nội bộ Sở Thuế quan và Thuế gián thu, trong đó Sở Thuế quan và Thuế gián thu được chia làm 03 bộ: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ.

Ngày 29-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 75-SL về tổ chức Bộ Tài chính, trong đó ghi rõ Bộ tài chính gồm 5 Nha, đứng đầu là Nha Thuế quan và Thuế gián thu. Như vậy, Sở Thuế quan và Thuế gián thu được đổi thành Nha Thuế quan và Thuế gián thu.

Ngày 14-7-1951, Bộ trưởng Bộ tài chính Lê Văn Hiến ký Nghị định số 54-NĐ quy định tổ chức Bộ Tài chính, trong đó Nha Thuế quan và Thuế gián thu được thu gọn thành Phòng Thuế xuất nhập khẩu thuộc Sở Thuế.

Ngày 14-12-1954, Bộ trưởng Bộ Công thương Phan Anh ký Nghị định số 136-BCT/KB/NĐ thành lập Sở Hải quan thuộc Bộ Công thương.

Ngày 06-4-1955, Bộ trưởng Bộ Công thương Phan Anh ký Nghị định số 73/BCT-KB-NĐ quy định nhiệm vụ, quyền hạn, bộ máy tổ chức của Ngành Hải quan.

Từ ngày 15 đến 20-9-1955, Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa I quyết định tách Bộ Công thương thành 02 Bộ: Bộ Tài chính và Bộ Thương Nghiệp. Sở Hải quan Trung ương trực thuộc Bộ Thương Nghiệp.

Từ ngày 16 đến 29-4-1958, Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I quyết định tách Bộ Thương nghiệp thành 02 Bộ: Bộ Nội Thương và Bộ Ngoại Thương. Sở Hải quan Trung ương trực thuộc Bộ Ngoại thương.

Ngày 27-02-1960, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng ký Nghị định số 03-CP ban hành Điều lệ Hải quan.

Ngày 17-02-1962, Bộ Ngoại thương ra Quyết định số 490/BNT-TCCB về việc đổi tên Sở Hải quan Trung ương thành Cục Hải quan Trung ương, Phân sở Hải quan đổi thành Phân cục Hải quan, Chi sở đổi thành Chi cục.

Ngày 01-8-1967, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Phan Anh ký Quyết định số 540/BNgT-TCCB thành lập tổ chức nghiên cứu ngoại thương.

Từ 02-5-1975, Đoàn công tác của Hải quan từ vùng giải phóng trở về và các cán bộ từ miền Bắc tăng cường tổ chức tiếp nhận các cơ sở của Tổng Nha thuế Ngụy tại Sài Gòn và các vùng mới giải phóng ở Nam bộ.

Ngày 11-7-1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Quyết định số 09-QĐ thành lập Cục Hải quan Miền Nam Việt Nam thuộc Tổng nha Ngoại thương. Sau đó, ngày 15-01-1976, Bộ Ngoại thương xác định Cục Hải quan Miền Nam Việt Nam do Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý.

Ngày 12-8-1976, Hội nghị Hải quan toàn quốc lần thứ I họp tại TP Hồ Chí Minh đã thống nhất tổ chức và hoạt động của Hải quan cả nước.

Ngày 25-4-1984 Thực hiện Nghị quyết số 68/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về đẩy mạnh chống buôn lậu và thành lập Tổng cục Hải quan, và Nghị quyết số 547/NQ-HĐNN ngày 30/8/1984 Hội đồng Nhà nước phê chuẩn thành lập Tổng Cục Hải quan và ngày 20/10/1984 Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Tô Hữu ký Nghị định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Tổng cục Hải quan. Tổng cục Hải quan trực thuộc Chính phủ.

Ngày 11-5-1985, Tổng cục trưởng TCHQ ký Quyết định số 387/TCHQ-TCCB đổi tên Chi cục Hải quan tỉnh, thành phố thành Hải quan tỉnh, thành phố.

Ngày 01-6-1994, Tổng cục trưởng TCHQ Phan Văn Dĩnh ký Quyết định số 91/TCHQ-TCCB đổi tên Hải quan tỉnh, Hải quan thành phố thành Cục Hải quan tỉnh, Cục Hải quan thành phố.

Ngày 06-3-1998, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam ký công văn chính thức tham gia Công ước HS về mô tả mã hóa hàng hóa. Theo đó, Công ước có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 01-01-2000.

Ngày 29-6-2001, thay mặt Quốc hội nước CNXHCN Việt nam, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh ký quyết định số 29/2001/QH10 ban hành Luật Hải quan. Luật Hải quan được công bố chính thức theo Lệnh số 10/2001/L-CTN do Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký ngày 12-07-2001 và có hiệu lực từ 01-01-2002.

Ngày 04-9-2002, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải ký Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg chuyển Tổng cục Hải quan vào Bộ Tài chính.- Ngày 21-5-2004, 03 ngành Hải quan, Thuế, Kho bạc đã ký văn bản hợp tác.

Ngày 26-01-2005, 05 cán bộ Hải quan Việt Nam nhận bằng danh dự của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO).

Ngày 14-6-2005, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã ký quyết định số 42/2005/QH11 ban hành "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan". Luật này có hiệu lực từ ngày 01-01-2006.

Ngày 30-6-2014, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký Lệnh số 12/2014/L-CTN về việc Công bố Luật Hải quan đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 23/6/2014. Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015.

Theo Hải quan Việt Nam
Phiên bản di động